Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

BÊN SÔNG BABYLON




Bài hát Rivers of Babylon không phải là sáng tác của nhóm  Boney M. nhưng do Brent Dowe và Trevor McNaughton thuộc nhóm The Melodians viết vào năm 1970. Bài hát được dùng trong phim The Harder They Come vào năm 1972. Rivers of Babylon chỉ nổi tiếng sau khi được nhóm Boney M. trình bày vào năm 1978.  Sau khi băng nhạc Rivers of Babylon / Brown Girl in the Ring được phát hành, bài Rivers of Babylon đứng đầu danh sách những ca khúc được yêu chuộng nhất tại nhiều quốc gia Âu Châu trong nhiều tuần liên tiếp.

Mặc dầu không phải là một thánh ca nhưng toàn bộ lời ca trong bài Rivers of Babylon được trích từ Kinh Thánh. Nguyên văn lời ca của bài Rivers of Babylon như sau:

“By the rivers of Babylon, there we sat down, yea, we wept, when we remembered Zion… They carried us away in captivity requiring of us a song… Now how shall we sing the Lord’s song in a strange land?
Let the words of my mouth, and the meditation of my heart, be acceptable in Thy sight…”

 “Bên những dòng sông tại Babylon, chúng con ngồi và khóc khi nhớ lại Si-ôn… Những kẻ bắt chúng con làm phu tù yêu cầu chúng con hát một bài ca … Giờ đây, làm thế nào chúng con có thể hát một bài ca của Chúa trên đất ngoại bang?
Nguyện cho những lời nói của miệng con và những suy gẫm của lòng con được đẹp ý Ngài.”





Lời ca nhắc lại một thời kì lịch sử đen tối của dân tộc Do Thái. Năm 586 trước CN vua xứ Babylon là Nebuchadnezzar mang quân tấn công kinh thành Jerusalem của dân Do Thái, đền thờ bị phá hủy, toàn thể dân chúng, kể cả vua của Judah, bị bắt sang sống lưu đày ở kinh đô Babylon. Hơn bốn mươi năm sau, khi đế quốc Ba Tư đánh bại đế quốc Babylon, vào năm 539 trước CN, đại đế Cyrus của Ba Tư mới cho người Do Thái hồi hương.

Tuy bài hát dẫn lời kinh cựu ước nhưng tại sao nhóm Boney M da màu lại nhắc lại lời khóc than của dân Do Thái hơn 2000 năm trước?. Để hiểu điều này phải hiểu rõ bối cảnh ra đời của nhạc Reggae và phong trào Rastafari. Khởi phát từ những nghệ sĩ tài năng như Bob Marley, nhạc reggae đã lan tỏa thôi bừng sức sống văn hóa người da màu ở Jamaca ra toàn thế giới. Cùng với âm nhạc reggae là phong trào Rastafari. Ảnh hưởng về văn hóa và tinh thần của lối sống Rastafari đối với nhạc reggae sâu sắc đến nỗi thật khó hình dung Rastafari lại thiếu raggae và ngược lại. Khi phong trào Rastafari nổi lên từ những khu ghetto vào cuối những năm 30 ở Kinhston, thủ đô của Jamaica thì ngay lập tức phong trào này đã trở thành chiếc cầu nối giúp những người châu Phi lưu lạc hướng về tổ quốc Ethiopia xa xôi, để tôn thờ vị hoàng đế mới lên ngôi. Văn hóa Rastafari không chỉ tồn tại trong lòng đất nước Jamaica mà còn lan rộng đến nhiều nơi trên thế giới.
  
Người da màu ở Jamacca và châu mĩ được đưa đến đây bởi những chuyến tàu buôn nô lệ của thực dân châu Âu. Cho đến tận những năm 70 của thế kỷ 20, họ không ngừng khóc than khi nhớ về quê hương tổ tiên ở Ethiopia. Trong cuộc sống đau khổ và bị phân biệt họ không ngừng phản kháng thông qua âm nhạc và đức tin. Cùng với nhạc reggae, phong trào Rastafari khởi phát ở Jamaca như là một nhánh của Thiên chúa giáo bắc phi. Những người rastafari tin rằng tổ tiên của họ là một trong 12 chi tộc Do thái cổ, những con cháu của Moses đã được Thiên chúa chỉ định và giải thoát. Vào thập niên 1970 phong trào Rastafari hướng về hoàng đế Ethiopia Haile Selassie và xem ông như một vị Chúa cứu thế. Khi Haile Selassie đến thăm Jamaca năm 1966 ông đã được đón tiếp bởi một biển người đầy những tín đồ sùng kính.

Trong phụng vụ, bài Thánh Vịnh 136 là bài ai ca về việc thành Giêrusalem bị hủy hoại và về cuộc lưu đầy ở Babylon, một lời nguyện cầu chân thành xin được giải thoát và là một lời bày tỏ niềm ước vọng về Thánh Đô. Bài Thánh Vịnh này gợi lên hình ảnh Babylon như là một chốn nô lệ và sầu thương được coi như là dấu báo tiêu biểu cho những cảnh tượng kinh hoàng của những trại tử thần ở thế kỷ vừa qua, nơi dân Do Thái đã bị diệt chủng. Trong nỗi sầu muộn của mình, thành phần bị lưu đầy không còn cất tiếng hát “những bài ca về Chúa”, những bài ca chỉ có thể dâng lên Thiên Chúa trong tự do và trong môi trường nguyện cầu phụng vụ. Trong Mùa Vọng, Giáo Hội đọc bài Thánh Vịnh này, với lời van nài của bài thánh vịnh mong được giải thoát cùng với nỗi khát mong nhung nhớ về Thánh Đô, như là một bày tỏ của niềm Giáo Hội hy vọng nguyện cầu cho việc Chúa Kitô đến. 

Mời mọi người cùng nghe bài thánh ca  " Bên Sông Babylon "  qua tiếng hát Ca đoàn Ngàn Thông có cùng nội dung với  " Rivers of Babylon "

Sưu Tầm 12/2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét